BÊN TRONG BÃI SẬY (Phần 2) – Lúc hoạn nạn mới biết ai là bạn
BÊN TRONG BÃI SẬY
Ông sếp nói vừa đủ nghe:
– Ba người bật đèn pin, đi theo tôi.
Tôi khá bất ngờ khi nghe câu nói đó, nhưng đây là mệnh lệnh cấp trên nên phải tuân theo, mặc dù rất sợ.
Theo chân người sếp đi trước, chúng tôi mon men tiến tới sát bên những cây sậy bị ngã rạp, dùng đèn pin soi vào gốc. Dấu đổ vẫn còn mới, ông ấy bạo dạn tiến vào bên trong.
Ba đứa chúng tôi bỗng nhìn nhau, hoang mang, rồi bấm bụng bước theo. Chúng tôi đi sát bên nhau, không dám rời xa một bước.
Bên dưới đám sậy là một lớp đất khá mềm, có nhiều chỗ khi bước qua bắn cả nước, thấm ướt vào giày. Lúc đó tôi vừa sợ lọt xuống hố, vừa sợ rắn, vì tôi biết đa phần những con rắn có độc tính mạnh thường đi săn đêm.
Vừa đi, tôi vừa dùng đèn pin để soi dưới chân, bước lại trên những dấu chân của người đi trước. Đột nhiên, đầu tôi va mạnh vào lưng anh bảo vệ đi phía trước. Bất ngờ, tôi ngước lên xem có chuyện gì mà anh ấy dừng lại.
Một cảnh tượng ngay trước mắt mà mãi mãi tôi không bao giờ quên trong phần đời còn lại.
Ánh sáng đèn pin của người quản lý đi đầu dọi thẳng vào mặt một người đàn ông đang ngồi xổm. Một tay anh ấy đang cầm một nắm bùn, đưa lên miệng và ăn ngon lành.
Tay còn lại thì cầm một nắm bùn khác, như chờ đợi tay kia ăn xong sẽ đưa lên ăn tiếp.
Tôi điếng người. Phải nói đúng là bốn người trong lúc đó đều điếng người. Cái cảm giác hoang dại cực kỳ trong đời.
Anh Toàn! Chính là anh ấy. Đôi mắt không hề nhắm tịt mà mở hé lờ đờ, vừa cắn miếng bùn vừa nhai nhồm nhoàm. Miệng thì cười trong lúc nhai, cực kỳ man dại. Mình đứng cách đó vài mét còn nghe rõ cả tiếng của cái thứ anh đang ăn phát ra. Từ khuôn mặt cho đến toàn thân, bê bết toàn bùn là bùn.
Sếp tôi hét lớn:
– Toàn! Mày làm gì đó? Toàn! Nghe tao nói không?!
Đáp trả lại tiếng quát đó, Toàn vẫn làm những hành động quái lạ như chưa hề nghe thấy ai gọi.
Người quản lý nóng ruột bước lại chỗ anh Toàn ngồi. Đột nhiên, một cơn gió rất lớn thổi tới, làm những hàng lau sậy ngã rạp nhiều phía.
Chúng tôi hoảng loạn. Tôi sợ đến mức định quay đầu bỏ chạy, nhưng người sếp vội nắm lấy tay tôi rồi hét lớn:
– Đừng chạy! Không còn thấy đường ra đâu!
Chương 5 : Con mắt thứ 3
Chúng tôi nghe vậy thì bất giác giật mình, quay sang nhìn nhau chưa hiểu chuyện gì.
Bỗng một cơn lốc kéo tới, những cơn gió không biết từ đâu đến, tiếng rít nghe kinh người. Cơn lốc tạo ra một vòng tròn lớn rồi xoáy quanh khu vực chúng tôi đứng.
Những chiếc lá sậy gãy ra rồi cuốn vào chiếc vòng ấy, như một chiếc lồng thu nhỏ.
Sếp tôi hét lớn trong tiếng gió:
– Đứng sát vào nhau rồi lui ra xa! Nhanh lên!
Sau tiếng hét, ông ấy vội vàng tháo chiếc vòng đang đeo ở cổ rồi cuốn nhiều vòng vào tay. Đó là một sợi dây chuyền được làm bằng nhiều sợi chỉ đỏ đan vào nhau, mặt dây chuyền là một chiếc túi nhỏ, khoảng hai đốt ngón tay. Ông chụm những ngón tay lại với nhau, rồi làm thêm những động tác mà không ai hiểu được.
Ông khép nhẹ các ngón tay lại, cẩn thận đan xen ngón trỏ và ngón giữa tạo thành một hình thù kỳ bí. Ngón áp út và ngón út ôm sát, giữ cho ấn pháp vững vàng nhưng vẫn thoải mái. Hai ngón cái chạm nhẹ, như khóa chặt năng lượng đang bắt đầu tụ lại trong lòng bàn tay.
Bàn tay ông đặt ngang ngực, nhịp thở đều đặn, tâm trí tập trung tuyệt đối vào từng động tác.
Sau khi bắt xong ấn, ông giữ nguyên tư thế tay, đưa lên trước mặt, dùng đầu của hai ngón tay cái ấn mạnh vào giữa trán rồi kéo từ từ xuống giữa chân mày. Dừng khoảng 1 giây, ông hét lớn:
Chiếc túi nhỏ đang quấn ở cổ tay đột nhiên loé sáng lên rồi tắt ngấm. Con mắt thứ ba vô hình giữa trán đã được khai mở. Nhờ có pháp nhãn, ông có thể nhìn thông thấu cả âm lẫn dương, và chứng kiến một sự kiện kinh hoàng: Toàn đang bị một con trăn lớn màu trắng vô hình cuốn quanh người, cơ thể nó đang từ từ siết chặt lại.
Chợt nhớ ra, con trăn ấy chính là một trong ba món pháp bảo của sư phụ ông – vị pháp sư tên Ba Khải, ngụ trên đỉnh Thiên Sơn Cấm. Vậy tại sao nó lại xuất hiện ở đây? Và tại sao nó lại làm hại chính người thân trong gia đình ông?
Sau một chút bối rối, ông trấn tĩnh lại, vội đưa hai bàn tay lên trước ngực, lòng bàn tay hướng vào nhau. Các ngón tay đan xen chặt chẽ, ngón cái hai tay chéo nhau tạo thành hình chữ X. Ông giữ nguyên tư thế ấy, tập trung ý chí và hơi thở đều đặn, tạo thành một trạng thái vững vàng để trấn áp tà ma – đó chính là ấn Đáo Tâm.
Bước từng bước một, chậm nhưng chắc, ông vượt qua cơn gió đang quay cuồng rồi tiến từ từ đến nơi anh Toàn ngồi. Con xà tinh hai mắt đỏ rực như lửa, dưới ánh trăng bàng bạc, đôi mắt ấy càng đỏ rực hơn bao giờ hết. Nó dương cặp nanh dài ra, làm cho đối phương phải bạt vía.
Giữ vững tay ấn như một viên kim cương, ông không ngần ngừ một giây nào, vẫn bước. Trong miệng ông lầm rầm đọc những câu gì đó. Chiếc túi nhỏ ở cổ tay lại phát sáng, một ánh sáng màu lam. Ban đầu nó toả ra mờ mờ, nhưng càng tiến gần con bạch xà thì chiếc túi ấy càng phát sáng rực rỡ.
Đột nhiên, sau lớp áo ở ngực anh Toàn cũng có một vật gì đó phát sáng. Đó chính là sợi dây chuyền thứ hai, được chính ông sếp tên Tư Hổ tặng để phòng thân, khi biết anh ấy nhẹ vía, dễ bị vong hồn vất vưởng tới dựa.
Hai chiếc túi càng lại gần nhau thì phát ra một năng lượng không tưởng, chói loà cả một khoảng không gian. Con bạch xà dường như đang bị thiêu đốt bởi hai ánh sáng ấy. Nó vùng vẫy, khè lên điên dại, rồi nhả cơ thể anh Toàn ra và quật thẳng chiếc đuôi lớn vào người ông Tư.
Lách người thật nhanh sang một bên để né đòn, theo phản xạ, ông lộn nhanh tới gốc sậy gần đó, bẻ một cây, tuốt lá rồi dùng nó thay cho cây kiếm gỗ đào. Gỡ sợi dây chuyền ở tay, ông quấn nhanh vài cây sậy, rồi trì chú vào nó. Lập tức, cây sậy mềm oặt trở nên cứng cáp lạ thường. Ông vung mạnh theo hướng con trăn di chuyển, một kình lực bất ngờ được tạo ra, vang lên một tiếng rít như muốn xé tan màn đêm. Rồi nhát thứ hai, nhát thứ ba…
Nhưng đều vô ích. Con bạch xà dùng chiếc đuôi lớn của mình quật mạnh để chống lại kình lực từ chiếc kiếm phép làm bằng sậy. Nó phản đòn, khiến ông Tư phải dùng hai tay đưa cây sậy lên chống đỡ, rồi bị hất văng ra xa vài mét.
Thấy đối phương đang bị mất lợi thế, con xà tinh rít lên kinh hãi, đôi mắt chói sáng rực cháy dữ dội. Nó vòng thân lùi lại phía sau, lấy đà để lao tới.
Ông Tư lập tức dùng hai tay đưa trước ngực, niệm chú rồi bắt ấn Hộ Thân. Một vòng sáng vô hình bao phủ, bảo hộ toàn thân. Ông đưa tay với lấy cây sậy nằm bên cạnh, gồng hết sức đưa lên để đỡ chiếc đuôi của con bạch xà đang quất tới.
Một tiếng "Uỳnh" vang lên. Hai kình lực va vào nhau. Ông Tư ngã bật ra sau, chiếc túi ở sợi dây chuyền đang quấn quanh cây sậy đột nhiên bốc cháy.
Đang chưa biết xử lý như thế nào, vì pháp lực của con bạch xà quá mạnh, ông Tư lồm cồm bò dậy, thủ thế để chờ đợi các đòn tiếp theo một cách vô vọng.
Bỗng từ xa vang lại nhiều tiếng sủa lớn, như từ dưới vực thẳm vọng lên, nghe đầy uy lực…
Chương 6 :Lúc gian nan có quý nhân phò trợ
Một đám lửa — đúng hơn là một con chó lửa — toàn thân nó bốc cháy, hai mắt rực sáng như đèn. Hàm răng lớn đang há ra theo từng nhịp chạy. Nó đi tới đâu, cỏ cây bên cạnh đều bị cháy xém.
Ông Tư nhận ra, đây chính là món pháp bảo thứ hai của tổ sư truyền lại cho ông Ba Khải. Nếu nó lại thuộc phe của con trăn kia, thì lần này ắt họa nhiều hơn phúc.
Vậy mà con chó lửa lao thẳng vào con bạch xà, ngoạm chặt đuôi rồi dùng lực cổ lắc mạnh. Con trăn vùng vẫy, trở mình. Nó bành hai chiếc nanh dài, bổ thẳng vào cổ con chó lửa.
Như biết trước được đòn hiểm, con chó lách người sang một bên để né tránh, nhưng hàm răng sắc nhọn của nó vẫn không buông tha chiếc đuôi của con bạch xà.
Ngọn lửa ở miệng con chó lửa liên tục đốt cháy trực tiếp vào vết thương, khiến con bạch xà đau đớn quằn quại. Sau một tiếng rít chói tai, con chó lửa bị hất tung ra xa vì cú húc đầu cực mạnh. Con bạch xà đang tính trườn nhanh tẩu thoát…
Thì ngay lúc ấy, tám thanh trường kiếm bằng gỗ dài khoảng ba tấc lao đến, cắm phập xuống đất, tạo thành một vòng tròn Bát Quái xung quanh con bạch xà, trấn yểm hết lối thoát của nó.
Một người thanh niên lạ mặt từ trong đám sậy bước ra. Tay phải cầm chuông, tay trái cầm cây phất trần. Vừa tiến đến, anh vừa lắc chuông, miệng đọc lớn những câu chú không ai hiểu được.
Con trăn tinh quằn quại, đau đớn khôn cùng. Những cơn gió xoáy mạnh hơn bao giờ hết… rồi từ từ dịu lại, cuối cùng tắt hẳn.
Nơi con trăn ấy nằm, lúc bấy giờ chỉ còn lại một bức tượng bằng đồng đen, to bằng bàn tay, hình một con trăn có một sừng — chiếc sừng bên kia đã bị bẻ gãy. Trên thân tượng dán một lá bùa nhỏ màu vàng, với nhiều dòng chữ đỏ ngoằn ngoèo.
Người thanh niên lạ mặt tiến lại, dùng hai ngón tay trỏ bắt ấn, rồi chỉ vào con chó lửa, nói lớn:
— Hồi!
Con chó lửa lập tức hóa thành một bức tượng màu đen, kích cỡ nhỏ hơn con bạch xà một chút.
Xong anh lại tiến đến nơi con xà tinh nằm, cúi người nhặt bức tượng lên, ngắm nghía rồi chép miệng:
— Bị bẻ gãy mất một sừng thiện, bảo sao mắt ngươi bây giờ chỉ toàn là ác tà…
Anh xé lá bùa trên pháp bảo, rồi lẹ làng bỏ bức tượng vào tay nải đang đeo bên hông. Nhìn quanh một vòng, anh hướng mắt đến ông Tư, khẽ gật đầu.
Ông Tư bất giác nhận ra người quen, liền la lên:
— Thằng Mót! Thằng Mót phải không? Nay lớn quá làm tao nãy giờ nhận không ra!
Mót gật đầu lần nữa rồi đáp:
— Con đến hơi trễ, cũng may chưa có chuyện đáng tiếc nào xảy ra.
Ông Tư ngỡ ngàng hỏi:
— Nhưng làm sao con biết ta ở đây mà tới giúp?
— Sư phụ phái con tới giúp chú. Ông ấy bảo gia đình người đang gặp đại nạn, con lần theo sợi dây mà trước đây chú được sư phụ tặng.
Nghe vậy, ông Tư nhặt sợi dây chuyền đã bị cháy xém gần hết ở gần đó, rồi nói:
— Thì ra mọi chuyện sư phụ đã có định liệu từ trước…
Như sực nhớ điều gì, ông Tư Hổ vội vàng chạy đến đỡ anh Toàn dậy. Lúc này, khuôn mặt anh đã trắng bệt, đôi mắt đờ đẫn, vô hồn. Ông Tư dùng tay móc hết những thứ dơ bẩn trong miệng ra cho anh, còn ba chúng tôi thì lao tới hỗ trợ, tìm đường đưa anh Toàn ra bên ngoài.
Anh Toàn được nhanh chóng nhập viện trong đêm. Ông Tư thông báo tin dữ đến người cô ruột — mẹ của Toàn — và dặn dò những điều gì đó khá lâu, rất cẩn trọng.
Hai người bảo vệ đi cùng để hỗ trợ được điều trở lại chốt nhằm tiếp tục công việc. Tôi được giao nhiệm vụ đi theo anh Toàn đến bệnh viện và ở lại đó, không cần trở lại công ty.
Chương 7 : Trở về vùng núi Cấm
Ngay trong đêm, chiếc xe bán tải chở hai người đàn ông lao nhanh về hướng Thất Sơn Bảy Núi — nơi có vị pháp sư cao tay tên Ba Khải đang ngóng tin. Họ chạy liên tục xuyên màn đêm, đến gần sáng mới tới nơi.
Tới một con đường nhỏ dẫn lên núi, chiếc xe tấp sang một bên đường rồi dừng lại, vì đoạn này xe không thể đi tiếp.
Hai người lặng lẽ vượt qua những con dốc cao. Đến một ngã rẽ, anh Mót vội kéo tay ông Tư lại và nói nhỏ:
— Đi bên này nè chú.
Ông Tư ngạc nhiên:
— Nhưng đường lên núi là hướng này mà?
Anh Mót cười:
— Thì chú cứ đi theo cháu, một lát sẽ hiểu.
Hai người đi sâu vào một lối mòn nhỏ, dẫn qua nhiều vách đá thẳng đứng. Nếu là người thường, chắc chắn không thể đi qua, vì lối đi sát vách núi chỉ chưa đến một gang tay; lỡ bước hụt thì khó có cơ hội trở về.
Đi thêm khoảng 20 phút nữa, họ đến một khu rừng già. Nhiều cây đổ ngang dọc khắp nơi, hầu như không còn đường nào để bước tới.
Mót kéo tay chú Tư lùi lại, lầm rầm khấn, rồi hô lớn:
— Út gha cha ya ti, út gha cha ya ti, út gha cha ya ti!
Hô liên tiếp ba lần, quang cảnh trước mắt đột nhiên thay đổi tức thì. Những thân cây lớn ngổn ngang lập tức biến mất, thay vào đó là một lối mòn nhỏ dẫn vào sâu trong khu rừng già.
Vừa đi, Mót vừa nói để xua bớt sự im lặng:
— Sư phụ hiện tại đang ngụ trong đây. Có nhiều chuyện chú nên nghe từ chính sư phụ kể sẽ tốt hơn.
Ông Tư tính mở miệng hỏi thêm, nhưng rồi lại thôi. Trước mắt ông lúc này là hai viên đá rất lớn, một viên cao tựa vào đầu viên thấp hơn, tạo thành một “ngôi nhà” bằng đá giữa rừng.
Bước lại gần, giữa làn sương mờ bay là đà, thấp thoáng một bóng người — một vị đạo sĩ râu tóc bạc phơ, mặc quần vải bố nâu sần, phía trên cởi trần. Hai mắt ông khép hờ, ngồi xếp bằng ngay ngắn bên trong. Ông Tư thấy vậy thì bước vội tới để chào.
Đột nhiên, Mót đưa tay cản và nói khẽ:
— Sư phụ đang thiền định. Chúng ta tạm ở bên ngoài, khi nào ông ấy tỉnh thức thì hãy vào.
Chưa hết ngạc nhiên này, ông Tư đã tới ngạc nhiên khác, thì thào:
— Trước đây ta ở đây, sư phụ chỉ ngồi thiền bình thường, đâu có như vậy…
Mót cười:
— Tại lúc chú xuống núi, sư phụ chưa đạt đến cảnh giới như hiện tại. Giờ ông ấy không cần ăn uống gì cả. Có lần sư phụ nhập tịnh cả tháng mới tỉnh dậy. Lần đó cháu hoảng quá, nhưng không biết làm sao. Giờ thì quen rồi nên không còn lo nữa.
Ông Tư lại hỏi:
— Rồi lúc cháu không ở bên cạnh, sư phụ ở đây một mình, không ai bảo vệ, lỡ thú rừng hay rắn rết thì sao?
Mót mỉm cười, chỉ tay vào chỗ sư tôn đang ngồi:
— Chú để ý kỹ xem, xung quanh ông ấy, có thứ gì chạm vào được không.
Nghe vậy, ông Tư quan sát kỹ hơn, rồi gật gù, nét mặt đầy kinh ngạc. Đúng thật — xung quanh sư phụ tỏa ra một làn sóng xung khí như một tấm kính vô hình bao bọc khu vực ấy, đến một con kiến cũng không thể lọt vào.
Ngay lúc đó, một chiếc lá vàng từ nhánh cây gần đó lìa cành, rơi xuống. Cơn gió thổi bay nó về phía vị sư tiên, nhưng chưa kịp chạm vào, chiếc lá đã bị một lực vô hình hất ngược trở ra, đáp xuống đất cách đó không xa.
Mót reo lên nho nhỏ:
— Đó, chú thấy chưa! Vậy thì còn lo gì thú rừng nữa. Nhưng như vậy vẫn chưa hết đâu… Chú để ý xung quanh vị trí sư phụ ngồi, có hai viên đá — một viên màu đen, một viên màu trắng. Bên ngoài lại có thêm tám viên đá nhỏ, chú thấy không?
Ông Tư nheo mắt nhìn, rồi gật gù:
— Ừ, thấy… Nhưng mấy viên đá đó thì làm được trò trống gì?
Mót tròn mắt:
— Trời đất, chú đừng đùa. Nhìn bề ngoài thì nó chỉ là những viên đá vô tri, nhưng ẩn sâu bên trong lại tồn tại một sức mạnh không tưởng. Tám viên nhỏ bên ngoài đại diện cho vòng Càn Khôn; còn hai viên đen trắng kia là Thái Cực Đồ. Khi được đặt đúng vị trí và biết cách trì chú, chúng sẽ tạo nên một bức tường vô hình khó có thể phá vỡ.
Im lặng vài giây, Mót kể tiếp:
— Hôm ấy, tầm trưa, sư phụ tỉnh thức sau một lần thiền định khá lâu. Ông lặng lẽ đi ra phía mép con suối, nhặt một mớ đá to nhỏ đem về, sắp xếp ngay ngắn dưới đất, rồi dùng một cây gỗ mục bên cạnh vẽ xuống đất thành hai vòng tròn bao quanh các viên đá.
— Lúc đó cháu chỉ ngồi im bên cạnh quan sát, thắc mắc lắm nhưng không dám hỏi. Một lúc sau, sư phụ chậm rãi giải thích: "Càn tượng trưng cho Trời, Khôn tượng trưng cho Đất. Càn Khôn là Trời và Đất, tượng trưng cho toàn bộ vũ trụ. Mọi thứ sinh ra, tồn tại, rồi biến đổi, lặp lại. Vòng nhỏ bên trong gọi là Thái Cực Đồ — chính là sự cân bằng và chuyển hóa lẫn nhau của Âm và Dương. Âm Dương vận động sinh ra Ngũ Hành, rồi biến hóa thành vạn vật."
— Cháu chưa kịp hỏi mấy cục đá đó để làm gì thì sư phụ đã biết trước, vuốt râu cười: "Đây chính là trận đồ ta lĩnh giáo được từ một vị Tiên Sư trong lúc thiền định. Đôi khi những thứ đơn giản lại không hề đơn giản. Những thứ tưởng phức tạp, đôi khi lại đơn giản vô cùng."
Đêm ấy, sau khi ăn tối xong, hai người tựa vào gốc một cây lớn cách nơi sư phụ thiền định không xa để ngủ. Sương đêm bay là đà, phủ kín mọi lối. Trong những góc tối nhất của rừng, những cái bóng đen di chuyển thật chậm, chạm vào nhau rồi biến mất. Tiếng cú đêm kêu rờn rợn, sau đó vỗ cánh bay vào màn đêm.
Nhìn sang bên, Mót đã ngủ say một cách ngon lành, còn ông Tư thì trằn trọc mãi. Mãi đến gần sáng, ông mới chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay.
Sức nóng của ánh nắng làm ông Tư giật mình tỉnh giấc. Nhìn sang bên cạnh, không thấy Mót đâu, ông lập tức bật dậy. Ở gần đó, một đống than hồng vẫn đang cháy lụi, chỉ còn chút tàn đỏ. Quay vào bên trong hang đá, ông thấy Mót đang đứng, kính cẩn rót trà vào chiếc chén bằng đá, rồi đặt trước mặt vị sư tôn Ba Khải.
Chợt, vị sư tôn lên tiếng. Giọng ông không lớn nhưng chứa một uy lực trầm sâu:
— Lại đây, chú Tư. Lâu lắm rồi thầy trò ta mới có dịp ngồi lại với nhau.
Ba người ngồi thành vòng tròn trên mặt đá. Ba Khải vuốt râu sang một bên, nhấp một ngụm trà nóng, rồi từ từ đưa câu chuyện vào dòng hồi ức.
— Hôm ấy, mặt trời sắp khuất sau dãy núi, muôn loài chim lục đục kéo nhau về tổ. Ta đang luyện công trên một vách đá lớn nhô ra bờ vực, thì bất ngờ một nhóm người lạ mặt xuất hiện. Ánh mắt họ lóe tia lửa, tay cầm chặt những vật sắc nhọn.
Ba Khải ngừng lại, quan sát họ, rồi từ tốn hỏi:
— Các cậu tìm đến đây, hẳn là có việc gì quan trọng?
Một tràng cười ma quái vang lên, nghe như tiếng chuông đồng bị gõ dồn dập — vừa lạnh lẽo vừa dữ dội. Âm thanh ấy mang theo oán khí đến mức lũ chim trên tổ hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn. Từ phía sau, một người đàn ông cao lớn bước ra. Nửa khuôn mặt hắn bị che bởi tấm vải dày phủ từ vành chiếc nón nan tre.
Hắn tiến đến gần, giọng trầm thấp vang lên:
— Ba Khải… đệ quên ta nhanh vậy sao?
Ba Khải khựng lại, mắt lóe lên một tia chấn động. Ông lùi một bước, giọng run nhẹ:
— Giọng này… Tám Lang? Huynh… huynh vẫn còn sống?
Ông Tư giật thót, chen ngang:
— Sư phụ nói… hắn ta vẫn còn sống ư?
Ba Khải quay sang, gật đầu, rồi kể tiếp.
Sau câu hỏi ấy, kẻ kia phá lên cười man rợ.
— Đúng vậy… Nhờ tụi mày! Chính chúng mày… nên hôm nay tao mới thành ra thế này!
Nói xong, hắn giật phăng chiếc nón, ném xuống đất. Nửa khuôn mặt bị biến dạng đến thê thảm hiện ra. Nụ cười hắn méo mó, vừa đau đớn vừa lạnh lùng tàn độc.
Bất chợt, Tám Lang gào lên, giọng như sấm nổ:
— THẰNG TƯ HỔ ĐÂU? MÀY GIẤU NÓ Ở ĐÂU?! KÊU NÓ RA ĐÂY CHO TAO!
— CẢ MÀY… THẰNG MÓT NỮA… RA HẾT ĐÂY!
— ĐỂ LÃO GIA GIA KỂ TỘI TỤI MÀY MỘT THỂ!
Nhận xét
Đăng nhận xét